Chap 19:
Sau đêm thao quân, sáng dậy xuống sân tôi cứ nghĩ là sẽ có một đống ngổn ngang cơ. Nhưng không, sân vẫn sạch tinh tươm, hàng xóm xung quanh nhà cũng không hay biết gì chuyện tối qua có động tĩnh, đến ngay CA dân phòng cũng chẳng biết gì. Lúc tôi ra khỏi nhà dạo quanh thì bắt đầu chột dạ, lấy xe máy ra đi vài vòng quanh làng tôi mới nhận ra dân mua đất đã đi đâu sạch không còn một bóng người, làng lúc này chỉ tuyền là dân gốc. Tôi giật mình lôi điện thoại ra xem thử thì vạch sóng ở mức 0, lật đật về nhà bật thử quạt thì quạt im re, điện thoại và điện sinh hoạt đều không có. Tầm 1-2 tiếng sau trong làng bắt đầu nhận ra điều kì lạ này, người ta nhốn nháo cả lên. Họ chạy cả ra cổng làng để xem điện đóm làm sao thì kinh hoàng nhận ra cổng làng đã đổ sụp, con đường nối vào làng vẫn còn nhưng không hiểu sao xe đi từ trong làng ra đến cổng là tắt ngúm, làng thì ở chỗ xa Tam điệp, chẳng ai điên đi bộ ra tận đó vào thời điểm này, nhất là khi trong làng vừa xảy ra lắm chuyện như thế.
Dịch vụ seo website giá rẻ
Đến buổi trưa thì trong làng không còn nhốn nháo nữa, có lẽ vì không có điện , mọi công cụ giải trí hiện đại đều không dùng được nên mọi người tụ tập ra đường trò chuyện nhiều hơn. Giờ này thì mọi người đều biết chuyện xảy đến với làng không hề là những tai họa ngẫu nhiên như người ta cố tự nhủ mình vậy. Đặc biệt là lớp người già, những người mà thời tấm bé đã từng chứng kiến tai họa từ cõi khác đổ xuống làng mình. Ở nhà, bữa trưa không có quạt nhưng lạ ở chỗ nhà không oi bức, nóng nực tý nào, trái hẳn với cái không khí ở vùng sát núi đá này. Ăn cơm xong, dạo mấy nhà hàng xóm xem thử cũng y hệt vậy, nhiều người ngủ trưa ngon lành, nhà nào cũng mát như điều hòa. Tôi nhìn thử lên trời thì thấy trời âm u như sắp dông tới nơi, đang giữa trưa mà tuyệt nhiên không có ánh mặt trời nào. Quanh đi quẩn lại rồi về nhà, thấy đàn ông trong nhà đang lấy nan tre, giấy hồ ra làm lồng đèn. Lồng đèn lục giác bằng giấy vàng, các mặt viết chữ, ở dưới treo một miếng gỗ vẽ hình cá chép. Tôi ngạc nhiên ngó ngó thì ông Tĩnh ( ông già họ hàng) bảo:
– Cái này ông học của người Nhật, ngày xưa nhà nào giàu lắm mới có mà treo, ban đầu thì móc vàng ngọc, tua rua nhiều màu, dùng để treo trước quan tài người chết như cờ phướn vậy, về sau có vẽ chữ với cá chép vào thì coi như vật báo hiệu rằng chỗ này đã có chủ, được sự bảo hộ của Tứ linh và Phong Lôi , ma cỏ ngoài đường không được xâm phạm vào.
Xem thêm: Cho thuê hosting việt nam giá rẻ
Làm xong tầm 20 cái đèn thì cũng đã 5h chiều, ông Tĩnh vội hối đem tre cắm các ngõ vào làng, mỗi cây tre treo 1 cái đèn lồng. Đêm đó, ông bảo thằng Việt với tôi đi dặn dò các nhà trong làng tối nay cứ ở yên trong nhà, có chuyện gì cũng chớ có bước ra ngoài nửa bước, còn ở nhà mình thì đàn bà bị hối đi ngủ sớm, 2 ông cụ và thằng Việt thì trải rất nhiều giấy ra vẽ bùa, tôi với thằng D. cũng bị hối đi ngủ nhưng nóng ruột chẳng ngủ được nên 2 thằng cứ đi ra đi vào rồi lại ra bàn nước ngoài vườn ngồi. Chán chán không có việc gì làm nên tôi vịn bậu cửa sổ rồi ngồi lên, ở trên này trông thẳng là ra đầm Eo, cái đầm đó suốt từ ngày bé tôi về nó vẫn thế, bất kể ngày hay đêm đều hiếm người qua lại. Bỗng nhiên tôi thấy có bóng 2 hay 3 người chạy trên cánh đồng, cố nheo mắt nhìn rõ thì hình như họ đang khiêng cái gì đó, đêm sáng trăng nhìn rõ ràng. Tôi túm thằng D bảo:
– Sao dặn rồi mà đêm hôm còn ai ra đồng Eo chạy như điên thế kia ?
Nó ngơ ngơ nhìn tôi:
– Ai chạy? Mày bị ngáo ngơ à?
Tôi gạt nó đi, nheo nheo mắt cố xem “bọn kia” nó khiêng cái gì. Ôi mẹ ơi! Chúng nó khiêng cái chum hay vại gì to lắm, mà chạy băng băng trên đồng lấy như không chạm đất, cái mồm, hình như chúng nó xoay cổ ra sau lưng mà chạy. Tôi tái mặt vỗ vỗ vai thằng D:
– Đi vào nhà đê mày! Tao bắt đầu xoắn rồi đấy.
– Vào đéo gì! Các siêu nhân đang vẽ vời, vào lại làm phiền ra.
Lúc này tôi mới tụt xuống, ngó qua cửa sổ vào nhà trong, bên ánh đèn nến leo lét, 3 người đang cặm cụi vẽ từng lá bùa. Thôi kệ, dù gì bọn kia cũng ở ngoài đồng, tài thánh cũng chẳng vào nổi đây, ta cứ chơi phần ta rồi tính sau. Tầm 2h sáng, đang pha ấm chè mới thì có tiếng chạy huỳnh huỵch ở đầu làng, vang rõ mồn một, lát sau lại là phía đông, tây, nam làng, chỗ nào cũng có tiếng chân chạy huỳnh huỵch lát xong thôi. Tầm nửa tiếng sau thì tiếng chân im, ở chỗ cổng làng bắt đầu vọng vào tiếng ngoèo ngoèo như mèo hoang kêu. Tôi với thằng D xanh mặt nhìn nhau, thằng D hối hả bảo:
– Vào ! Vào ! Tao là thấy đéo ổn.
– Ờ thì vào! Mà ở đây còn nghe rõ thế chắc mấy nhà đầu làng đái ra máu mất.
Vừa dứt lời thì thằng Việt ló đầu ra bảo:
– Ở đâu cũng nghe y hệt thế thôi. Vào nhanh không tao đóng cửa cho ở ngoài giờ.
– Từ từ chờ bố!
– Nào đừng có nóng! Đang vào, đang vào!
Ở trong nhà, bùa bày thành xấp, hai ông cụ thì đang ngồi nghỉ uống nước. Ông Tĩnh cất giọng khề khà:
– Đêm nay có mấy cái đèn lồng là nó không dám vào đâu! Nhưng cách đó không lâu dài được, rồi cũng phải tính cách khác.
Tôi bèn đem kể chuyện nhìn thấy vừa nãy cho mọi người, ông Bách gật gù:
– Có khi nhờ chuyện này lại tìm ra lý do mấy lần rung chuông hội quân đều chỉ gọi được phần tư với một nửa về là nhiều.
Giờ tôi mới vỡ lẽ lý do sao thấy bảo hội quân mà không đem luôn đi lại còn dùng dằng mãi. Trò chuyện thêm lúc nữa rồi tất cả cũng về phòng, bên ngoài, tiếng ngoèo ngoèo vẫn vang lên đều đều, thỉnh thoảng len vào tiếng chó cắn nhấm nhẳng và tiếng gào khóc.
Vào phòng, thấy vợ con tôi đã ngủ, tôi bèn rón rẽ chui vào nằm cạnh thật khẽ, sợ làm 2 người thức giấc. Nhưng vợ tôi vẫn tỉnh, em khe khẽ giật áo tôi bảo:
– Tiếng gì đấy ? Em sợ.
Tôi ôm em vào lòng vỗ về:
– Meo meo ngoan. Có anh đây rồi, không việc gì phải sợ.
Ôm cả 2 vào lòng, tôi nhắm mắt lim dim thêm chút nữa rồi ngủ.
Dịch vụ thiết kế website giá rẻ nhất việt nam
Sáng sớm hôm sau, ra kiểm tra quanh làng thấy đèn lồng ở hướng Tây cái ngoài bị giật xuống còn cái trong vẫn y nguyên. Ra đến cổng làng kiểm tra thì thằng Việt nhìn quanh quất như tìm cái gì đó xong nó bảo tôi gọi mấy ông bặm trợn ở làng ra, thêm 2 thằng Toàn, Nhiệm đang làm CA nữa, đem theo cả cuốc xẻng. Thằng Toàn một tay vác xẻng một tay sờ vào bao súng, lập bập hỏi:
– Ê Việt! Mày bảo tối qua cái tiếng gầm gào đầu làng nó là tiếng gì vậy? Đ m đêm qua bố buồn ỉa mà đéo dám ra ngoài, chẳng lẽ đi ỉa lại lăm lăm súng.
Tôi ngoái ra nói:
– Bảo bao lần rồi! Cái công trình phụ thì đéo xây khép kín mà xây tít ngoài vườn, kêu dịch vào trong đi thì đéo dịch, lười cơ, giờ mang bô vào ỉa.
Vừa đi theo thằng Việt, bọn tôi đi sau vừa trò chuyện inh ỏi như để át đi cái cảm giác rờn rợn đang xâm chiếm lấy mình. Đi được một lúc mấy thằng mới nhận ra đang ở đồng Eo, ở giữa đồng gió thổi lồng lộc, mấy cây bạch đàn HTX trồng từ đời nào cứ đung đưa xào xạc. Đi được độ trăm mét nữa thì thằng Việt chỉ xuống đất xong bảo:
– Ở đây! Đào lên cho tao xem nó thế nào.
Mấy thằng nhìn nhau ái ngại, cuối cùng một ông gạt ra, cầm cuốc bổ cái phập xuống, kêu lớn:\
– Nó bảo đào thì cứ đào! Lỡ gì cũng lỡ mẹ nó rồi, để tao xem xem có cái gì mà làng náo loạn như tận thế đến nơi. Tao đéo tin là có ma mãnh gì ở đây, có khi cả làng trúng khí ảo giác của máy bay địch cũng không hay.
Cả đám đứng đó cười hô hố xong xắn tay vào đào, cứ đào được lúc là thằng Việt lại kêu dừng, đốt 1 lá bùa rồi tay bắt quyết, đọc rì rầm xong thả xuống. Đào đến tầm 3m thì nó kêu đào nhẹ lại, xúc thêm vài xẻng nữa nghe đánh keng, một thằng kêu:
– Đá hả?
– Không phải đá! Đào rộng ra nữa xem nào.
Đào rộng ra thêm tý nữa thì ở dưới lộ ra một cái miệng chum được niêm phong toàn chữ Hán. Hai ba ông ồ lên:
– Hũ vàng hũ bạc gì đây. Nhưng đéo cần biết, cứ moi lên đã.
Tôi nghĩ lại chuyện tối qua, xong quay sang thằng Việt. Nó nhìn tôi rồi bảo:
– Về nhà lấy sợi thằng đỏ ra đây hộ tao! Gọi cả ông Tĩnh nữa.
Nói đoạn, nó bảo mọi người ngừng đào, còn tôi thì chạy về lấy dây. Gần trưa thì ra đến nơi, ông Tĩnh rút trong túi áo ra một nắm thẻ vuông vuông bằng gỗ, trên có khắc chữ như bộ cờ tướng. Xong xuôi hết tất cả mới ròng dây xuống kéo cái chum lên. Thằng Việt bảo:
– Nghe rõ bao giờ bảo mờ thì xé niêm phong xong mở ra luôn!
Tất cả nín thở chờ đợi, vừa nghe tiếng mở phát là ông Tĩnh cầm kiếm gỗ xé niêm phong, 2 thằng Toàn, Nhiệm cùng nhau giật phăng cái nắp chum ra. Thằng Việt vừa chạy lùi ra sau vừa gọi:
– Tất cả lùi ra xa, đợi một lúc sau hẵng vào.
Một lúc sau, cả đám kéo ồ vào, thằng Việt giật tờ bùa dán trước và sau chum đi, để lộ một đường vạch thằng tắp dọc theo thân chum. Nó cầm tràng hạt quật vào đó 3 cái, lập tức cái chum nứt làm đôi. Tất thảy người đứng đó đều đứng sừng sững, mắt mở trân trân nhìn vào trong chum. Bên trong chum là xác một ông già râu bạc, đội mũ cánh chuồn mặc áo trào như kiểu ngày xưa.
Chap 20:
Cả đám kinh hoàng nhìn vào cái xác, nhìn trang phục thì chắc ông này sống vào khoảng thời Trịnh – Nguyễn phân tranh, nhưng quái lạ ở chỗ sau hàng trăm năm như thế, đáng lý ra cái xác phải mủn ra từ lâu rồi, đằng này vẫn tươi nguyên, ngoại trừ lớp da thịt hơi tóp lại và màu da đã ngả nâu thì nhìn không khác gì một ông già gầy còm vừa mới chết. Mấy thằng đứng đó dáo dác nhìn nhau, có đứa quay sang trách thằng Việt:
– Đ m mày dẫn bọn tao đi đào mộ người ta hả ? Chôn lại ngay thôi không rách việc giờ.
Thằng Việt khoát tay :
– Từ từ, nhìn kĩ lại xem có phải xác người không đi.
Tôi cũng vội vàng xoa dịu chúng nó, tôi tin không phải vô cớ mà thằng Việt đi bày trò quái gở này. Sau khoảng nửa tiếng vẫn chẳng có động tĩnh gì, hai ba đứa bắt đầu kêu than, định đi mua quan tài chôn lại cho người ta. Thằng Việt vẫn điềm nhiên như không, ngồi xổm xuống đất nhìn chăm chăm vào cái xác. Bỗng nhiên nó khịt khịt mũi rồi lăn nhào ra xa, kêu lớn:
– Tất cả lùi ra xa, nhúng vải ướt bịt mũi lại.
Ngay lúc đó, ông Tĩnh quăng lần lượt mấy tấm thẻ gỗ xung quanh cái xác, miệng đọc lẩm nhẩm. Mấy thằng bọn tôi chạy tán loạn cả, mãi lúc sau nghe tiếng thằng Việt gọi mới quay trở lại. Lúc này, hơn hai chục con mắt đều toát lên vẻ kinh hãi, mấy ông đàn ông bu theo đi xem lúc nãy giờ chạy về sạch, chỉ còn có đúng 6 người lúc đầu ở lại. Cái xác ông già kia, không hiểu sao đã như bay hơi hết cả cơ thịt, chỉ còn lớp da thâm xì, mỏng như giấy ướt đang dính chặt vào bộ xương, đôi môi cái xác giờ khô quắt, cuộn xoăn mép lại làm lộ ra hàm răng đen xỉn. Nhìn thấy cả lũ đứng như trời trồng, ông Tĩnh giải thích:
– Chỉ có lớp da là của người thôi, còn xương cốt bên trong là hỗn hợp các loài động vật gắn lại với nhau. Cái này là thuật của người Vân Nam, dùng xương cốt của một số loài động vật gắn lại với nhau thành bộ khung na ná khung xương người, rồi lột nguyên lớp da lẫn thịt của người ra, khoác lên bộ khung , trong bụng nhồi thảo dược, thẻ đồng, phù chú xong may lại, khoác cho áo Phán quan. Thuật này truyền qua An Nam thì lại được phát triển thêm bằng cách phối kết các loại ngải, bùa Nam tông. Người xưa tin rằng cho cái xác cầm thẻ bài ngọc khắc tên tuổi ai thì người đó sẽ tránh được họa sát thân. Tránh được không thì chẳng thấy, chỉ thấy không biết bao nhiều dân đen, nô tỳ vô tội bị lột da lúc đang sống để làm hình nhân thế mạng cho vua quan, quý tộc. Vua chúa bên Trung Quốc ngày xưa cũng làm trò này, mà mỗi lần chôn phải tầm 49 người một khu, chôn 6 khu như vậy, ý muốn ngay cả việc chết đi, luân hồi lục đạo cũng không phải chịu, bất tử muôn đời để hưởng phước.
Tôi nghe vậy mà rởn cả gai ốc, nhưng vẫn băn khoăn không hiểu chuyện này thì có liên quan gì với chuyện làng đang mắc phải. Thằng Việt thấy mặt tôi đăm chiêu vậy thì bảo:
– Cái cần không phải là cái xác này, đợi thêm tý nữa.
Đến chừng một tiếng sau thì dưới đất chỗ vừa đào cái chum lên có tiếng động, thằng Việt ngay tức khắc rút trong túi ra một tấm lưới rồi quăng xuống hố, chạy ra túm lưới kéo lên. Cả đám xúm xít nhìn vào, chỉ thấy trong lưới có con gì trông từa tựa như con chó con, nhưng đuôi thẳng tuột mà dài nữa, lông trắng muốt như lông thỏ. Thằng Việt thò tay vào túm con thú kia ra, buộc cổ lại rồi đưa cho ông Tĩnh giữ. Ông Tĩnh chưa kịp cầm thì nó quẫy mình phát xong phóng vèo đi, nhưng bốn phương tám hướng đều có người chặn, nó dáo dác chạy quanh, chạy tới chỗ tôi thì cụp tai lủi dần lại, tôi đưa tay xuống túm lên cũng chỉ thấy nó co rúm lại chứ không dám chạy. Thằng Việt thở phào nhẹ nhõm rồi quay đi, đốt một lá bùa rồi ném vào cái xác, tay lần tràng hạt đọc chú, cái xác cháy bùng lên, theo gió bay dần đi, xong nó bảo mấy thằng bỏ mảnh chum vào chỗ cũ rồi lấp đất lại. Trong lúc chờ, nó ra ngó ngó con thú đang sợ hãi cuộn tròn trong lòng tôi, nó cười hề hề xong bảo tôi:
– Biết con gì đây không ?
– Chồn à? Hay chó thành tinh ?
– Hồ ly tinh chính hiệu đấy.
Tôi há hốc mồm, nó bồi thêm:
– Chứ mày nghĩ hồ ly tinh là phải có chín đuôi, hóa thành gái đi hại người à ? Cáo thường sống đến 10 năm là già cốc đế. Nhưng con này phải cỡ trăm tuổi, thế mà vẫn nhanh nhẹn thế này. Đấy là nhờ nó hàng ngày thì bắt chuột, ếch nhái trong đồng Eo vốn đã nhiễm âm khí nặng, đêm đến lại đào hốc mò vào nằm cạnh cái chum, hưởng dương khí giả do cái xác trong chum toát ra. Mấy ngày nay làng mình có động, âm khí bủa vây bốn phía, trong nhà của người sống cũng lởn vởn âm khí con này sống lâu nên am tường lẽ đời, vội vàng tìm đến nơi có dương khí mạnh để trú ẩn. Vậy nên hôm nay tao mới rình bắt được.
– Bắt làm c l gt ?
– Ngu thế! Nó sống phải trăm tuổi rồi, động vật mà thế thì không phải tầm thường đâu, nhìn xem tai nó cụp như tai chó con, mõm cũng ngắn hơn mõm cáo, đuôi, lông đều trắng toát, mượt như nhung. Ngay từ cái dáng hình nó cũng đã khác cáo thường rồi. Đem về kiểu gì chẳng được việc.
Nói đoạn nó hích nhẹ tôi:
– Đào hoa gớm nhỉ! Đến cả hồ ly tinh cũng đổ.
– Kệ cm! Bố đéo thích cáo, nhà bố có mèo rồi.
Lát sau thì bọn kia cũng lấp đất xong, cả đám lục tục kéo về, chẳng ai bảo ai, mấy ông đi cùng đều biết chuyện hôm nay không thể hé răng cho ai được.
Về đến nhà, Ngọc Anh với vợ tôi đang cho bọn trẻ con ăn, con cáo được đặt xuống đất thì lạ lẫm nhìn xung quanh xong chui biến ra chỗ gậm ghế ông Bách đang ngồi, quẩn vào chân ông. Thằng Việt cười cười bảo tôi:
– Thấy tao nói có sai không ? Cực khôn nhé. Chọn chỗ an toàn nhất để trú ẩn. Lúc nãy nó rúc vào cạnh mày vì dương khí trong mày tỏa ra mạnh hơn hẳn người khác.
– Nghĩa là éo phải bố đào hoa chứ gì?
– Có mỡ đấy mà húp!
Trêu đùa lộn tùng bậy một hồi rồi cũng đi ăn cơm. Ông Bách thỉnh thoảng lại vứt cho con cáo miếng thịt cá gì đó, nó lại càng quấn nữa. Từ sau bữa cơm, đi đâu nó cũng kè kè đi bên cạnh ông. Mấy đứa trẻ con không biết gì, cứ lon ton chạy theo kêu cún con mà nó chẳng thèm để ý.
Đêm nay khá im ắng. Đến tầm 3h sáng, ở góc phía Tây làng lại có tiếng gầm gào, lần này thì chỉ có đúng góc phía Tây có động, lại to hơn hẳn đêm qua. Mấy người trong nhà tức tốc vùng dậy, thằng Việt đeo túi đồ nghề, tôi thì ôm con cáo chạy theo, hai ông cụ và thằng Dũng thì để ở nhà giữ. Vừa chạy theo, tôi vừa nghĩ thầm “ Cứ đêm nào cũng thế này thì ma cỏ chưa bóp cổ đã chết vì thiếu ngủ rồi! Mai phải lắp cửa cách âm trong phòng ngủ của đàn bà với trẻ con thôi. Mà cứ lao lực thế này, hai ông cụ làm sao chịu nổi! ”. Thằng Việt như đọc được suy nghĩ của tôi nó bảo:
– Đừng nghĩ nhiều mệt óc! Đã bước chân vào nghề thì phải dốc sức đến chết, đấy là lẽ thường. Chuyện lần này không chỉ vì làng mình và còn vì nhiều cái khác nữa.
Tôi ngớ ra thì nó bảo:
– Mày nghĩ mà xem, suốt hàng trăm năm nay, người sống với người chết vốn không thể ở chung với nhau. Nhưng vẫn có những oán linh muốn làm hại người sống, vì thế nên mới sinh ra thầy phù thủy, Âm Dương Sư, thầy mo, pháp sư trừ tà,…. Những người như bọn tao là người gác khoảng ranh giới giữa đêm với ngày.
Ngừng một lúc nó nói tiếp:
– Nhưng giờ là thế kỉ 21, là lúc mà công nghệ hiện đại đã chiếm ưu thế, con người cũng đông hơn, ánh sáng tràn ngập khắp mọi lúc mọi nơi, theo đó thì nghề phù thủy cũng phải dần lùi bước để nhường chỗ cho sự phát triển của khoa học. Ma quỷ vốn cũng chỉ là những gì con người chưa hiểu rõ, sớm muộn gì cũng sẽ bị khoa học tiên tiến tìm ra bí mật và kiểm soát, không cho gây hại tới đời sống con người. Nhưng đó là chuyện về sau, còn hiện tại là lúc khoa học chưa phát triển tới mức có thể bảo vệ còn người khỏi những thứ sức mạnh vô hình đó, nghề phù thủy thì lại càng ngày càng mai một đi, giờ là lúc ranh giới giữa thế giới người sống với thế giới người chết mỏng manh nhất.
Mày hãy tưởng tượng mà xem, nếu lũ kia chiếm được một cái làng làm đại bản doanh, rồi dần dần chiếm những làng khác nữa, hay là cả một tỉnh, sẽ lâu đấy, thậm chí là vài chục năm nữa, lúc mà con người không phòng bị nữa, bóng tối tưởng như đã bị đẩy lùi bởi ánh đèn điện kia sẽ bất ngờ phản công, đưa con người trở lại thời kì mông muội sợ thần sợ quỷ.
Nghe nó nói mà tôi toát cả mồ hôi hột, dù gì cũng đâu thể tới mức thế cơ chứ.
Mải nói chuyện, cả lũ đã chạy tới nhà ông V lúc nào, nhà này là nhà nằm sát rìa phía Tây nhất. Trong nhà thắp nến sáng trưng, có cả tiếng trẻ con khóc ngặt nghẽo. Chúng tôi gõ cửa bồm bộp, gọi lớn:
– Bác V ơi! Ra mở cửa cho chúng cháu bác V ới!
Trong nhà có tiếng vọng ra:
– Cháu nào? Là đứa nào
– Cháu H với Việt đây! Nhanh lên không chết cả nút giờ.
Có tiếng dép lẹp kẹp, một thằng choai choai mặt tái như gà cắt tiết chạy ra mở cổng, lắp bắp:
– Dạ hai chú sang ạ!
Vào nhà, thấy cả nhà ngồi túm tụm trước ban thờ, ông V vẫn lăm lăm cái gậy gỗ. Thằng Việt bảo:
– Bác cứ yên tâm! Giờ cả nhà thổi tắt hết nến đí, đóng chặt cửa lại, bọn cháu ở ngoài khắc có cách. Trong nhà nghe thấy gì cũng mặc kệ, không cần quan tâm, cứ đóng chặt cửa là được.
Mới đầu ông V còn nhất quyết không chịu vì “ sợ tắt đèn đi thì ma đến”, lại sợ bọn tôi ở ngoài có làm sao thì không biết ăn nói thế nào với người nhà hai đứa. Mãi rồi ông cũng chịu, còn dặn đi dặn lại là có gì cần thì kêu to lên để ra cứu.
Sắp xếp xong xuôi, ở ngoài tôi và thằng Việt đứng nhìn bốn bề đen kịt, tiếng gầm gào ở vẫn nghe vọng lại từ cái bên ngoài tường rào ở góc vườn. Thằng Việt bảo tôi:
– Thả con hồ ly tinh ra đi.
Giờ nhìn xuống mới để ý con cáo đang quắc mắt nhìn chằm chằm về phía phát ra tiếng kêu, lúc này nhìn toát ra thần thái mãnh liệt chứ không run rẫy như lúc ở nhà nữa. Tôi thả nó xuống đất, nó đi lượn vờn vờn quanh sân mấy vòng, thỉnh thoảng chõ mõm ra chỗ bờ rào kêu mấy tiếng ‘hắc hắc”,
Dưới ánh trăng, màu lông trắng muốt của nó óng lên, dần dần ngả sang màu xanh như lửa ma trơi. Nhìn bóng dáng nó uyển chuyển, lượn qua lượn lai mà cảm tưởng như ánh lửa xanh đang bốc ra từ người nó. Thốt nhiên, con cáo phóng vút đi, lao thằng ra vườn, nháy mắt đã nhảy qua bờ tường chạy ra ngoài. Tôi giật mình đưa tay ra định tóm thì đã muộn, thằng Việt giữ tay tôi lại bảo:
– Không phải lo! Giống này thành tinh rồi thì bọn vớ vẩn đến dọa kia không làm gì nổi nó đâu. Giờ kệ nó, nó tự biết phải làm gì.
– Thế giờ mình làm gì?
– Đợi nó về, mày có uống cà phê không, tao mang theo một phích pha sẵn từ nhà này.
– Hay nhể! Thì đợi thôi.
Cứ như vậy, hai thằng thức thâu đêm. Bên ngoài kia không còn tiếng gầm gào nữa, chỉ còn tiếng chạy, không huỳnh huỵnh dọa nạt như tối qua mà như đang nháo nhác chạy, xen lẫn là tiếng khóc nỉ non và tiếng gì như van vỉ.
Tờ mờ sáng hôm sau, tôi đang ngủ gà ngủ gật thì thằng Việt túm áo lay dậy:
– Kìa! Nó về rồi kìa!
Tôi mắt nhắm mắt mở nhìn theo hướng tay nó chỉ, thấy con cáo đang thong dong đi về, mồm ngậm vật gì đó.